ISSN 1859-1558
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Journal of Vietnam Agricultural Science and Technology
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ TỔNG HỢP (IPM) BỆNH MỐC SƯƠNG, VIRUS TRONG SẢN XUẤT KHOAI TÂY  

Các Tác giả

Trịnh Văn Mỵ, Đỗ Thị Bích Nga, Nguyễn Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Nhung, Ngô Thị Huệ

Từ khóa

Tóm tắt

Bệnh mốc sương và virus là những dịch hại nguy hiểm trong sản xuất khoai tây ở các tỉnh phía Bắc. Bệnh mốc sương có thể bùng phát thành dịch trên diện tích lớn khi nhiệt độ 15 - 17oC và ẩm độ đạt 95 - 100% trong thời gian 7 - 10 ngày và tỷ lệ nhiễm bệnh virus tăng lên qua các đời của giống trong sản xuất. Ở các giống khoai tây Solara và Marabel đời G2-3 là 2 - 15%, đời G4 là 36,4% và đời G5 là 65%, giống Trung Quốc là 14 - 72%; ở các giống Atlantic, Aladin và Belarosa là 11,3 - 86,3% và các giống KT2, KT3, VC38-6 là 78 - 100%. Trên đồng ruộng trồng khoai tây xen với các cây trồng khác như dưa chuột, bầu bí, các loại đậu đỗ (cô ve, cô bơ) sẽ phát triển môi giới truyền bệnh virus như rệp, bọ trĩ, nhện cao hơn các ruộng trồng thuần khoai tây. Biện pháp chọn lọc quần thể cây bệnh virus trong sản xuất khoai tây làm giảm bệnh virus từ 96% xuống còn 30% sau một năm chọn lọc và làm tăng năng suất 34,5%. Biện pháp phòng chống bệnh mốc sương bằng thuốc hóa học đã làm tăng sản lượng đến 107,6% so với không phòng trừ chỉ đạt 8,8 - 69,5%. Mô hình sản xuất khoai tây bằng phối hợp các biện pháp về sử dụng giống sạch bệnh, phòng trừ bệnh mốc sương đúng cách, thời vụ thích hợp, loại bỏ ký chủ truyền bệnh mốc sương, virus (IPM) làm tăng năng suất khoai tây từ 48,6 - 51,6% so với đại trà không áp dụng biện pháp IPM.  

Đã xuất bản

28/08/2019

Cách trích dẫn

Lĩnh vực

Số thường kỳ