Các Tác giả
Đinh Quang Hiếu , Lê Anh Hoàng , Nguyễn Đình Tĩnh , Vũ Dương Quỳnh , Bùi Thị Phương Loan , Phan Hữu Thành , Nguyễn Thị Oanh , Đào Thị Thu Hằng , Đặng Anh Minh, Nguyễn Mai Chi , Trần Thị Tâm , Đỗ Thị Thủy , Nguyễn Thanh Cảnh , Phạm Quang Hà1
Tóm tắt
Kết quả điều tra 50 hợp tác xã nông nghiệp (HTX) thuộc các loại hình sản xuất, kinh doanh khác nhau trên các vùng sinh thái nông nghiệp của cả nước cho thấy sự đa dạng cao về quy mô hoạt động sản xuất và kinh doanh. Nhóm HTX lúa gạo có quy mô bộ máy và diện tích đất đai sản xuất lớn nhất (trung bình một HTX sản xuất lúa gạo có 453 ha đất canh tác), thấp nhất là các hợp tác xã chăn nuôi (trung bình chỉ có 12 ha đất). Doanh thu cao nhất ở các HTX sản xuất cà phê, trên 31 tỷ đồng/năm và thấp nhất ở các HTX nuôi trồng thủy sản (3,6 tỷ đồng/năm). Các nhóm HTX cho thấy hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh còn thấp, tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu của các HTX chỉ ở mức xung quanh 10%. Kết quả điều tra hiện trạng áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc (TXNG) cho thấy tỷ lệ áp dụng tại các HTX còn thấp, trung bình là 26,0%; thấp nhất ở ngành rau củ quả, dược liệu (18,8%). Tỷ lệ thành viên trong HTX biết đến TXNG dao động ở mức 55 - 78%, cao nhất là nhóm HTX cà phê và cây ăn quả. Hiện trạng áp dụng công nghệ TXNG tại các HTX còn thấp do công nghệ này tương đối mới, đặc biệt đối với nông dân lớn tuổi. Bên cạnh đó, những khó khăn về trang thiết bị, kỹ năng công nghệ thông tin (CNTN) còn hạn chế cũng là những rào cản cho việc ứng dụng công nghệ TXNG tại các HTX. Kết quả điều tra cho thấy tất cả các HTX đều mong muốn được hỗ trợ, chuyển giao, làm chủ công nghệ TXNG sản phẩm trong thời gian tới.