ISSN 1859-1558
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Journal of Vietnam Agricultural Science and Technology
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TẠO BÊ LAI F1 TẠI QUẢNG BÌNH VÀ HƯNG YÊN

Các Tác giả

Trần Xuân Khôi, Lê Thị Huệ, Cao Bá Cường, Đỗ Văn Thu

Từ khóa

Bò lai zebu, bò Blanc Blue Belge, thụ tinh nhân tạo, tinh đông lạnh

Tóm tắt

Bài báo này trình bày các kết quả tuyển chọn bò cái lai Zebu và ứng dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo nhằm nâng cao năng suất và chất lượng đàn bò tại hai tỉnh Quảng Bình và Hưng Yên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 330 bò cái lai Zebu tại Quảng Bình và 691 bò lai Zebu tại Hưng Yên với khối lượng trung bình tương ứng là 338,2 ± 17,6 kg và 336,4 ± 20,6 kg đã được thụ tinh nhân tạo với tinh cọng rạ của giống bò Blanc Blue Belge (BBB). Tỉ lệ thụ thai chung sau 2 lần thụ tinh nhân tạo của bò cái lai Zebu tại Quảng Bình và Hưng Yên tương ứng là 70,75%, và 76,02%. Số bê lai F1 BBB được sinh ra tại Quảng Bình là 290 con; khối lượng bê sơ sinh, 4 tháng tuổi, 6 tháng tuổi lần lượt là 30,76 kg; 163,04 kg và 206,43 kg. Số bê lai F1 BBB được sinh ra tại Hưng Yên là 483 con, khối lượng bê sơ sinh, 4 tháng tuổi, 6 tháng tuổi lần lượt là 29,5 kg; 161,15 kg và 213,09 kg. Tốc độ tăng khối lượng trung bình sau 4 tháng nuôi của bê lai F1BBB tại Quảng Bình là khoảng 1,102 kg/ngày, và tại Hưng Yên là 1,097 kg/ngày. Các kết quả thu được trong nghiên cứu này tương đương với các kết quả tạo bò lai F1 BBB tại Việt Nam, do đó có thể tiếp tục sử dụng tinh đông lạnh của giống bò BBB để lai tạo bò lai hướng thịt có năng suất cao và chất lượng thịt tốt.

Đã xuất bản

28/01/2023

Cách trích dẫn

Lĩnh vực

Số thường kỳ